Triển lãm ảo Tem với các con tem có nội dung hay được tôi tìm thông tin trên internet, các quốc gia phát hành tem mới nhất, các bạn sẽ có những khoảnh khắc với các con tem có nội dung tuyệt vời nhất trên thế giới hiện nay.
trang nầy Được tạo bởi: Hồng Đức 3/2020
Nội dung Sưu Tập, nguồn interner khác vv..
Trân trọng kính mời các bạn thưởng ngoạn.
Xem Công nghệ thực tế ảo trên app mobile
Các con tem Giáng sinh năm 2020 kể câu chuyện Chúa giáng sinh thông qua bốn hình minh họa lấy cảm hứng từ màn hình điện thoại màu tuyệt đẹp, với độ nét đặc sắc.
Cách sử dụng Thực tế tăng cường (AR) với tem Giáng sinh 2020 của NZ Post :
• Tải xuống ứng dụng Magenta từ Google Play hoặc App Store
• Đặt tem của bạn trên một bề mặt phẳng
• Mở Magenta và giữ thiết bị của bạn trên tem
• Chọn 'quét hình ảnh'
• Chạm vào hình ảnh trên màn hình để bắt đầu trải nghiệm AR!
Tải xuống ứng dụng Magenta quét mã vạch vào các con tem bạn sẹ được nghe 4 câu chuyện về Chúa Gíang sinh nội dung trong 4 con tem
Chiếc tem Giáng sinh đầu tiên lấy cảm hứng từ những bức tranh Hà Lan thuở ban đầu tại Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia xuất hiện vào năm 1966. Thiết kế, được Ủy ban Cố vấn Tem của Công dân nhất trí đề xuất, đã đủ phổ biến để nó được sửa đổi và sử dụng vào năm sau (Dịch vụ Thông tin, tháng 6 năm 1966). Phiên bản năm 1967 dài thanh lịch thể hiện nhiều hơn bức tranh gốc của Hans Memling, bao gồm quần áo của Mary và bảng điều khiển phía sau cô ấy. Con tem được tạo mẫu bởi nhà thiết kế Howard C. Mildner, họa tiết được thực hiện bởi Edward R. Felver và chữ của Kenneth C. Wiram thuộc Cục Khắc và In (BEP).
Phó Tổng Giám đốc Bưu điện Frederick C. Belen nhận xét về hai con tem này, "từ quan điểm kỹ thuật, việc in con tem này có lẽ là nhiệm vụ khó khăn nhất mà BEP từng đảm nhận" (Dịch vụ Thông tin, tháng 11 năm 1966). Điều này là do cả in thạch bản và in ấn Phương pháp in được sử dụng với mực có năm màu: nâu đậm, nâu nhạt, đỏ, xanh lam và cam, đôi khi chúng được kết hợp để tạo ra các màu bổ sung. Ví dụ, màu xanh lam lần đầu tiên được áp dụng cho tấm thảm, sau đó màu cam được đặt trên để tạo ra một màu xanh lá cây, tất cả đều sử dụng báo chí Giori (Dịch vụ Thông tin tháng 7 năm 1966).
Ngoài ra, chủ đề tôn giáo đã gây ra một số khó khăn cho POD. Một trợ lý của PMG đã thể hiện mối quan tâm này khi anh ta viết thư cho một luật sư, vào ngày 22 tháng 3 năm 1966, “Đây sẽ là thiết kế tôn giáo nhất mà chúng tôi từng sử dụng trên tem bưu chính và chúng tôi muốn ý kiến từ văn phòng của bạn về việc liệu một con tem dựa trên bức tranh này sẽ vi phạm Điều khoản thành lập của Tu chính án đầu tiên đối với Hiến pháp. "
Hans Memling - Madonna and Child with Angels
Bức tranh dựa trên những con tem Giáng sinh truyền thống năm 1966 và 1967 là một trong số những biến thể của cùng một bố cục được hoàn thành bởi Hans Memling và xưởng của ông. Một phiên bản, trong phòng trưng bày Uffizi ở Florence, Ý, cho thấy Đức Mẹ Mary mặc áo choàng, đầu nghiêng về hướng ngược lại. Các trang phục và vòm, với những vòng hoa treo trên đó, được thiết kế cầu kỳ hơn trong phiên bản Uffizi. Trong bức tranh của Phòng trưng bày Quốc gia, có những nhân vật điêu khắc khác nhau trên đỉnh cột, đại diện cho Isaiah và Vua David (Hand 1986).
Trên con tem, Thiên Chúa Jesus có vẻ hơi lúng túng, dang tay về phía đường viền của bức tranh. Tuy nhiên, khi nhìn vào bức tranh đầy đủ, rõ ràng anh ta đang với lấy một quả táo, được một thiên thần đề nghị như một "dấu hiệu cho vai trò của Chúa ." (Wolff 1986). Ngoài ra, các yếu tố khác, đặc biệt là của con tem năm 1966, không rõ ràng nếu không tham chiếu đến bức tranh gốc. Có một vật thể nhô ra trong hình con tem từ góc dưới bên trái: nhìn vào bức tranh của Memling cho thấy đây là tay cầm của nhạc cụ, một chiếc đàn vi-ô-lông, được mang bởi thiên thần. Lối đi phía trên bên trái của hình ảnh con tem cũng mơ hồ, nhưng trong bức tranh lớn hơn thì rõ ràng là phong cảnh. Một điều tối kỵ trong con tem năm 1966 đã được làm rõ hơn trong phiên bản năm 1967
"Madonna and Child with Angels," Đức Mẹ, Thiên Chúa Gíang Sinh và Thiên Thần, sau năm 1479, của Hans Memling. Bộ sưu tập Andrew W. Mellon, Phòng trưng bày nghệ thuật quốc gia
Hoa Kỳ được bao quanh bởi hai đại dương lớn nhất thế giới là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Mối liên hệ của nước Mỹ với hai khối nước lớn này đã trở thành một phần quan trọng trong bản sắc của nó. Trẻ em chơi ở những vùng biển này, ngư dân rút sinh kế từ chúng, và công dân trân trọng sự rộng lớn và bội thu của chúng. Winslow Homer, một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất của Mỹ, yêu biển và ông đã miêu tả một cách xuất sắc những phẩm chất của nó.
Một trong những tác phẩm của ông có tên là Breezing Up, tôn vinh sự kết nối giữa biển và người với nó. Bộ Bưu điện đã phát hành tác phẩm này vào năm 1962 trên một con tem kỷ niệm Winslow Homer. Victor McCloskey đã thiết kế con tem cho thấy một chiếc thuyền buồm ở Gloucester, Massachusetts. Hình ảnh này là phù hợp, vì bối cảnh, Gloucester, là một nơi mà hơn 8.000 thủy thủ đã mất mạng trước sự tàn phá của thiên nhiên Đại dương. Ngày Tổng bưu điện hy vọng rằng con tem này sẽ không chỉ tôn vinh các đại dương nước Mỹ, mà còn giúp mở rộng sự quan tâm của tất cả người Mỹ đối với các bức tranh lịch sử đã trở thành một phần của truyền thống Mỹ.
Trân trọng giới thiệu thông tin về 100 vật phẩm sưu tập tem quý hiếm trên thế giới do Phó Chủ tịch thường trực, Tổng Thư ký Hội Tem Việt Nam Nguyễn Quang Vinh sưu tầm và biên soạn.
Con Tem Những con số của miền Tây nước Mỹ
Trong lịch sử, miền Tây nước Mỹ đã phục vụ như một ngôi nhà cho nhiều người. Truyền thuyết xung quanh chàng cao bồi và người Mỹ bản địa là bằng chứng cho ảnh hưởng của khu vực này đối với văn hóa Mỹ. Frederic Remington đã tôn vinh miền Tây nước Mỹ thông qua nhiều phương tiện nghệ thuật. Ông đã miêu tả người Mỹ bản địa trong một bức tranh có tên "Tín hiệu khói" và cũng vinh danh Cowboy trong một tác phẩm điêu khắc có tên "Đến qua lúa mạch đen". Hai tác phẩm này được mô tả riêng biệt trên tem 4 cent và 18 cent. Các con tem tôn vinh Remington, nhưng chúng cũng nhắc nhở rằng các truyền thuyết và sự kiện từ phương Tây là một phần quan trọng trong bản sắc của nước Mỹ.
Cục Bưu điện đã phát hành "Tín hiệu khói" trên một con tem vào năm 1961 để kỷ niệm 100 năm ngày sinh Remington. Hình ảnh cho thấy hai người Mỹ bản địa phát ra tín hiệu khói làm phương tiện liên lạc. Trong bức tranh, có một người bản địa và một con ngựa. Tuy nhiên, cả hai đều bị cắt xén để tập trung vào con tem tập trung vào tín hiệu khói. Tại buổi lễ cống hiến cho con tem, Postmaster General J. Edward Day nói rằng hình ảnh này là phù hợp, vì nó cho thấy sự giao tiếp sớm giữa những người đàn ông. Ngày chỉ ra thực tế rằng Bộ Bưu điện đang tiếp tục liên lạc thông qua việc sử dụng hơn 36.000 chi nhánh bưu điện. Con tem là tác phẩm đầu tiên khắc họa một tác phẩm nghệ thuật Mỹ với đầy đủ màu sắc và nó được thiết kế với mục đích thêm vẻ đẹp cho tem bưu chính.
Con Tem mệnh giá 4c tác giả Frederic Remington
ph: 4 tháng 10 năm 1961 – tranh trưng bày Bảo tàng Bưu chính Quốc gia Smithsonian
Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân (La Liberté guidant le peuple)
Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân là một tác phẩm của họa sĩ trường phái lãng mạn Eugène Delacroix về cuộc cách mạng tháng Bảy năm 1830 tại Paris. Trong khung cảnh khói lửa của cuộc chiến Delacroix mô tả một phụ nữ cầm là cờ ba màu đại diện cho tự do.
bộ tem bưu chính bảo tồn loài chim bói cá.
Ngày 14/11/2020 Bộ TT&TT Việt Nam Phát hành bộ tem bưu chính bảo tồn loài chim bói cá.
Thật đáng yêu các chú chim bói cá tôi thường chụp đã được lên tem bưu chính. Đó chính là điều tuyệt vời khi chọn bộ môn sưu tập tem nhiều đam mê nầy
Bộ tem chuyên đề này do họa sỹ Nguyễn Du, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam thiết kế và gồm 3 mẫu và 1 blốc
Bộ tem giới thiệu các loài: Bồng chanh đỏ, Bồng chanh rừng, Sả mỏ rộng và Sả đầu đen.
Các vật phẩm nầy do chính tôi design mục đích chính cổ động cho việc bảo tồn loài chim đẹp nhiều màu sắc nầy để chúng không bị biến mất tuyệt chủng tại Việt Nam và trên thế giới hiện nay.
Mẫu tem 3-1 là loài bói cá bồng chanh đỏ Ceyx erithaca (Linnaeus, 1758)
Loài bói cá bồng chanh đỏ sinh sống ở khu vực gần suối, ao nhỏ bên trong rừng lá rộng thường xanh, ghi nhận lên đến độ cao 950m. Con bói cá trưởng thành có hân hung đỏ và vàng nhạt với phần thân và vai xanh đen, hai bên cánh sẫm màu hơn, mỏ đỏ tươi, trán và hai bên rìa tai có viền xanh nhỏ.
Mẫu tem 3-2 là loài cá bồng chanh rừng Alcedo hercules Laubmann, 1917
Đây là loài bói cá có nguy cơ tuyệt chủng. Loài bói cá này sinh sống ở khu vực suối lớn, sông nhỏ bên trong rừng lá thường xanh và rừng thứ sinh, phân bố từ độ cao 50m-1.250m.
Mẫu tem 3-3 là loài bói cá sả mỏ rộng Pelargopsis capensis (Linnaeus, 1766)
Loài bói cá này sống gần sông, hồ lớn bên trong hoặc gần rừng lá rộng thường xanh và rừng hỗn giao rụng lá, rừng cây gỗ nơi trống trải, thỉnh thoảng rừng ngập mặn, ghi nhận lên đến độ cao 800m.
Loài bói cá này có kích thước cơ thể lớn với phần thân, cánh và đuôi xanh dương, mỏ to màu đỏ, đỉnh và hai bên đầu nâu xám nhạt, viền cổ và phần dưới cơ thể vàng cam nhạt.
Mẫu Blốc: Sả đầu đen Halcyon pileata (Boddaert, 1783)
Loài bói cá trong mẫu bloc này là sả đầu đen sinh sống ở các khu vực đất ngập nước trong đất liền và ven biển, rừng ngập mặn, bãi biển, vườn trồng, ghi nhận lên đến độ cao 1.550m (chủ yếu ghi nhận tại vùng đất thấp). Loài bói cá này di cư trú đông, tương đối phổ biến trong cả nước.
Loài bói cá này có mỏ to, đỏ tươi, đỉnh và hai bên đầu đen, gáy, cổ họng, ngực và phần bụng trên trắng, bụng dưới và dưới đuôi hung nhạt, từ lưng đến đuôi và một phần cánh xanh đậm, phần cánh ngoài đen.
Khi Albrecht trở về làng, gia đình Durer tổ chức một bữa tiệc lớn ăn mừng sự thành công của chàng họa sĩ trẻ. Sau bữa ăn dài thịnh soạn đầy tiếng cười và tiếng nhạc, Albrecht đứng lên nâng cốc về phía người em trai ở cuối bàn bày tỏ lòng biết ơn những năm tháng hy sinh thầm lặng để anh vun đắp cho hoài bão nghệ thuật: “Và bây giờ, Albert, em trai yêu quý của anh – Albrecht trìu mến nói – đã đến lúc em biến ước mơ của mình thành hiện thực. Hãy đến Nuremberg, anh sẽ lo tiền học cho em”.
Tất cả mọi người đều quay về phía cuối bàn nơi góc phòng. Albert ngồi đó, nước mắt ràn rụa trên gương mặt gầy gò xanh xao, chỉ có thể nghẹn ngào: “Không… không… không…”.
Cuối cùng Albert lau nước mắt đứng dậy, nhìn khắp lượt những người anh yêu thương rồi đưa tay ôm mặt khẽ nói:
– Ôi không anh ơi, đã muộn mất rồi. Em không thể đến Nuremberg được nữa. Hãy nhìn xem, những tháng năm dưới hầm mỏ đã tàn phá đôi tay em. Mỗi ngón tay đều đã dập nát không dưới một lần, và gần đây tay phải em lại bị chứng thấp khớp hành hạ, đến nỗi không thể cầm ly chúc mừng anh thì làm sao có thể cầm cọ vẽ những đường nét tinh tế trên khung vải trắng. Anh ơi, đã quá muộn rồi…
Lịch sử đã lùi vào quá khứ hơn 450 năm. Giờ đây, hàng trăm tác phẩm của Albrecht Durer được trưng bày trong nhiều viện bảo tàng lớn trên thế giới, nhưng điều lạ lùng là phần lớn người ta biết đến tranh ông, thậm chí treo trong nhà bản sao của chỉ một tác phẩm duy nhất.
Người ta kể lại rằng vào một ngày nọ, để tỏ lòng biết ơn đức hy sinh cao cả của người em trai, Albrecht đã kiên trì tái hiện từng đường nét của đôi bàn tay không còn lành lặn áp vào nhau, với những ngón tay xương gầy hướng lên trời. Ông gọi bức tranh của mình đơn giản chỉ là “Hands”, nhưng cả thế giới ngay lập tức đón nhận kiệt tác nghệ thuật này và đặt tên cho món quà tình yêu ấy là “The praying hands”. Đó là tác phẩm nghệ thuật được kết tinh từ bàn tay không phải chỉ của một người họa sĩ.
This lot consists of a set of 4 corner blocks of the 1966 CANADA 3 Cent Christmas stamp issue, "Praying Hands" by Albrecht Dürer. Mint Never Hinged. Scott Catalog #451.
Lô này bao gồm một 4 khối Blốc 4 tem phát hành tem Giáng sinh CANADA mệnh giá 3 Cent năm 1966, con tem về bức ttranh nổi tiếng "Bàn tay cầu nguyện" của Albrecht Dürer. Danh mục Scott # 451.
Bức Tranh “Bữa tiệc cuối cùng”
hay “Bữa tiệc ly”
(Tiếng Ý: Il Cenacolo hay L’Ultima Cena)
của danh họa Leonardo da Vinci
Buc Tranh- “Bữa tiệc cuối cùng” hay “Bữa tiệc ly” (Tiếng Ý: Il Cenacolo hay L’Ultima Cena)
là bức họa rất nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci. Tác phẩm được sáng tác vào khoảng năm 1495 đến 1498, miêu tả trai phòng của Tu viện Santa Maria ở thành phố Milano. Bữa tiệc ly là thời điểm cuối cùng Chúa Jesus ngồi ăn với các môn đồ của mình trước khi ngài bị chính quyền La Mã bắt và bị đóng đinh lên thập tự giá. Trong kỳ này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự kiện mà bức tranh mô tả, những chi tiết đắt giá trong tranh, cũng như âm nhạc ẩn dấu đằng sau bức tranh nổi tiếng này.
Thời bấy giờ, trong hoàn cảnh nhà cầm quyền La Mã cùng với giới lãnh đạo tôn giáo lợi dụng tín ngưỡng của người dân để trục lợi và làm điều xấu, sự xuất hiện của Chúa Jesus đã làm chấn động Do Thái giáo. Ngài đã chỉ ra sự giả trá trong đời sống tôn giáo, chỉ ra rằng nơi cầu nguyện ăn năn đã biến thành chốn trục lợi, chỉ ra thói đạo đức giả trong cách suy nghĩ của người làm chính trị, v.v.
Chính vì lẽ đó, nhà chức trách quyết định phải bắt giữ Chúa Jesus vì xem ngài là mối đe dọa cho quyền lực của họ. Tuy nhiên, họ chỉ dám làm việc này vào ban đêm hầu tránh bùng nổ bạo loạn vì Chúa Jesus được dân chúng yêu mến.
Trong bữa tiệc cuối cùng trước khi bị bắt giữ, Chúa Jesus bẻ bánh, dâng lời tạ ơn, đưa bánh cho các môn đồ mà nói rằng “Này là thân thể ta”; Rồi lấy chén, tạ ơn, đưa cho các môn đồ mà nói rằng “Hết thảy hãy uống đi; vì này là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Sau cùng, ngài căn dặn môn đồ: “Hãy làm điều này để nhớ đến ta”. Chúa Jesus đã tiên tri với các môn đồ rằng, có một người sẽ bán rẻ ngài…
Quả là như vậy, Judas đã phản bội Chúa Jesus để đổi lấy 30 đồng bạc, bằng cách chỉ điểm ngài cho quân lính qua một nụ hôn…
Trong bức “Bữa tiệc cuối cùng”, Leonardo da Vinci tập trung mô tả phản ứng của từng môn đồ khi nghe lời tiên tri của Chúa Jesus. Mỗi môn đồ lại có một cung bậc cảm xúc riêng biệt. Do sự phá hủy của bức “Bữa tiệc cuối cùng” theo thời gian, chúng ta sẽ sử dụng một tác phẩm phục chế lại (1520) của Andrea Solari. Ở đây, chúng ta sẽ đi từ trái qua phải của bức tranh, chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba môn đồ:
• Nhóm thứ nhất: Bartholomew, James, và Andrew đều biểu lộ ra nét ngạc nhiên khi nghe lời tiên tri của Chúa.
• Nhóm thứ hai: Peter biểu lộ sự tức giận khó kìm chế được, trong tay cầm một con dao, nói chuyện với John. Hành động này biểu lộ cho sự kiện sau đó, khi Peter nổi nóng tấn công lính La Mã bằng một con dao lúc Chúa Jesus sắp bị bắt giữ. Judas biểu lộ nét sợ hãi khi nghe lời tiên tri, trong tay nắm chặt một túi tiền, có lẽ là tiền mà Judas đã nhận để phản Chúa. Ông ta là người duy nhất đặt khuỷu tay lên bàn, và đầu cũng được đặt ở vị trí thấp nhất so với những người khác. Người môn đồ trẻ tuổi là John thì có vẻ như đang bị sốc đến mức gần ngất đi.
• Nhóm thứ ba: Thomas trông có vẻ rất buồn, và giơ một ngón tay lên, khuôn mặt tỏ rõ sự ngờ vực. Hành động đó cũng biểu lộ cho sự kiện xảy ra sau này, khi Thomas nghi ngờ sự phục sinh của Chúa Jesus cho đến khi được tự mình cảm nhận quyền năng của Chúa. James tỏ vẻ bất ngờ đến mức không thể tin được, với hai tay giang ra. Trong khi đó, Philip có vẻ như muốn xin Chúa giải thích, bày tỏ lòng trung thành của mình.
• Nhóm thứ tư: Matthew và Jude Thaddeus quay qua Simon với vẻ thắc mắc, hỏi xem liệu Simon có câu trả lời cho câu hỏi của họ về lời tiên tri của Chúa Jesus.
Bản thân Chúa Jesus lộ rõ sự bình thản và nét thoáng buồn, như biết trước tội lỗi của Judas, cũng như những gì mình sắp phải trải qua. Ngài được đặt giữa bức tranh, là tâm điểm trong tranh, thu hút từ mọi góc nhìn thông qua bố cục điêu luyện của người họa sĩ.
Ngoài ra, trong bức tranh, chúng ta còn thấy rằng tay phải của Chúa Jesus đang với tới một chiếc bánh mì, còn tay trái đang đặt mở trên bàn, cũng hướng tới chiếc bánh mì khác. Điều này cũng được nhắc đến trong Kinh Thánh, là do Chúa Jesus đã tiên tri rằng kẻ phản Chúa sẽ lấy bánh mì vào cùng thời điểm với ngài. Ngài diễn đạt lời tiên tri đó bằng tay trái, khiến cho Thomas và nhất là James kinh ngạc sửng sốt. Cùng lúc đó, vì bị phân tâm bởi cuộc nói chuyện giữa Peter và John, Judas đã đưa tay ra lấy một cái bánh, cũng chính là cái bánh mì mà tay phải của Chúa Jesus đang với tới. Từ đó, Judas chính là kẻ phản Chúa ứng nghiệm với lời tiên tri.
Âm nhạc trong tranh vẽ
Là một tuyệt phẩm nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci, “Bữa tiệc cuối cùng” cũng được coi là một bức họa tiềm ẩn nhiều thông điệp và gợi ý lạ lùng bên trong. Do thời gian tàn phá nên giờ đây chúng ta chỉ có thể thấy được một dị bản phục chế không hoàn chỉnh của “Bữa tiệc cuối cùng”. Tuy nhiên, điều đó cũng không thể làm vơi đi những bí ẩn của “Bữa tiệc cuối cùng” khi một nhạc sĩ kiêm chuyên viên máy tính người Ý công bố phát hiện mới cho thấy, trong bức tranh còn ẩn giấu âm nhạc…
Giovanni Maria Pala, tác giả của phát hiện trên cho biết ông bắt đầu nghiên cứu kỹ bức tranh Bữa tối cuối cùng từ năm 2003. Điều đầu tiên khiến ông chú ý là tấm khăn trải bàn với những đường kẻ ngang, dọc, bên trên là những lát bánh mỳ, trông giống như các nốt nhạc. Quan sát một cách tổng thể, Pala nhận thấy 12 tông đồ của Chúa được bố trí thành 4 nhóm, mỗi nhóm 3 người. Cách bố trí này gợi sự liên tưởng đến các bản nhạc theo nhịp 3/4, vốn rất thịnh hành ở thế kỷ 15, khi Da Vinci thực hiện bức tranh. Cuối cùng, Pala phát hiện ra rằng nếu coi bàn tay của Chúa và các tông đồ cùng với các lát bánh mỳ là những nốt nhạc, rồi đọc chúng theo chiều từ phải sang trái như cách viết thường thấy của Leonardo Da Vinci thì người ta thu được một bản nhạc thực sự.
Tuy nhiên, nếu chỉ có dấu hiệu về những nốt nhạc thì chưa đủ làm nên một giai điệu đúng nghĩa, cho tới khi Pala phát hiện ra điểm mấu chốt: khuông nhạc này phải được đọc từ phải sang trái – theo đúng cách viết của Leonardo Da Vinci. Trong cuốn sách của ông mang tựa đề “La Musica Celata” (Tạm dịch là “Giai điệu ẩn giấu”), Pala đã mô tả chi tiết về hành trình tìm kiếm của ông về giai điệu đằng sau bức danh hoạ. Từ đó, ông đã đưa ra một bản hòa tấu có độ dài 40 giây, với tiết tấu trang nghiêm giống như loại nhạc dùng cho lễ cầu nguyện. Nhạc sĩ người Ý này cho biết, bản nhạc nghe hay nhất khi được chơi bằng đàn ống, loại nhạc cụ phổ biến trong các dàn nhạc nhà thờ vào thời của Da Vinci.
Không chỉ có vậy, Pala còn nhận thấy vị trí các “nốt nhạc” trong bức tranh nếu được liên kết với nhau theo từng dòng sẽ làm thành những ký hiệu rất lạ, giống như loại chữ hình nêm của các nền văn minh Tây Á thời cổ đại. Một chuyên gia nghiên cứu về kinh Thánh nổi tiếng ở Rome đã xác nhận phát hiện của Pala và cho biết thêm rằng những ký tự hình nêm này tạo thành một câu bằng tiếng Do Thái cổ có nghĩa là “vinh quang và hiến dâng bên Người”.
Bloc Tem nghệ thuật do Palau phat hanh 2012 MNH. HS. Raphael
MỪNG LỄ THÁNH TRINH NỮ TỬ ĐẠO Catherine Alexandria
Ngày 26/11 - MỪNG LỄ THÁNH CATARINA ALEXANDRIA - TRINH NỮ TỬ ĐẠO
Catarina Alexandria (tiếng Hy Lạp) hay Catherine Alexandria (tiếng Anh) là một thánh nữ thuộc Giáo hội Công giáo sống vào thế kỷ thứ IV, thời Giáo hội sơ khai. Catarina là con gái của một gia đình giàu có ở thành Alexandria, của Ai Cập. Thời còn trẻ, bà là một cô gái có nhan sắc và rất hiếu học đặc biệt là say mê nghiên cứu về triết học và tôn giáo. Khi bà đọc các sách viết về Kitô giáo và dần dần bà đã trở thành Kitô hữu.
Khi Catarina được 18 tuổi thì cũng là lúc hoàng đế La Mã Maximinus Daia bắt đầu thực hiện các hoạt động đàn áp các tín đồ Kitô hữu. Bà đã đứng ra chỉ trích ông vua này, dùng lý lẽ để biện bạch và chống lại những quan điểm ngang ngược, vô lý của nhà vua. Khi Hoàng đế bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maximinus không thể lý giải được các chất vấn của Catarina. Ông bèn triệu vời 50 triết gia ngoại giáo tài giỏi nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý. Một số đông trong số đó đã nghe lời thuyết phục của nàng và xin theo đạo Công giáo. Hết sức tức giận, Hoàng đế Maximinus đã cho lính giết chết từng người trong số họ. Catarina cố gắng thuyết phục Hoàng đế, nhưng Maximinus chỉ say mê sác đẹp của nàng và chỉ muốn cưới nàng làm tì thiếp. Ông còn cố gắng chinh phục Catarina bằng cách hứa tặng cho nàng chiếc vương miện Hoàng hậu. Catarina nhất mực từ chối vì thánh nữ đã quyết dâng trọn mình cho Chúa và sẵn sàng chấp nhận bị tù đày, hành hạ. Tức giận, Hoàng đế sai quân lính đánh đòn và tống giam thánh nữ vào ngục.
Đang lúc Hoàng đế đi cắm trại ở nơi xa, Hoàng hậu và một viên sĩ quan đã tò mò đến bên phòng giam Catarina để nghe người thiếu nữ Kitô hữu tài giỏi này thuyết giảng. Kết quả là bà thuyết phục được Hoàng hậu cùng 200 lính canh, cai ngục tin theo giáo lý Thiên Chúa, và đã được ơn trở lại đạo Công giáo.
Maximinus Daia biết chuyện, tức giận cực độ, Hoàng đế đã ra lệnh hành hình Hoàng hậu cùng tất cả quan quân đã theo đạo Công giáo.
Riêng bà thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình, thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina bị trảm quyết khoảng năm 310. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.
Lòng sùng kính bà phát triển thành Thập tự quân. Trong nhiều thế kỷ, thánh Catarina thành Alexandria được tôn kính như là bổn mạng của những triết gia và những nhà thuyết giáo Công giáo. Thánh nhân còn được xem là biểu tượng như là sự khôn ngoan của các phụ nữ trong công việc đòi hỏi công bình và tự do cho nữ giới.
Bà là một trong 14 người giúp việc tông đồ, rất được sùng kính ở Đức quốc và Hungary.
Vào năm 2011 Bưu chính Mỹ đã phát hành những con tem Giáng sinh truyền thống mang hình ảnh Đức mẹ Madonna và đứa bé (Modonna and Child). Con tem Giáng sinh năm 2011 thể hiện một chi tiết là từ bức tranh của họa sỹ Italia Raphael có tên Madonna của Candelabra. Bức tranh hình tròn này từ năm 1513 và hiện nay nằm trong bộ sưu tập của bảo tàng nghệ thuật Walters ở Baltimore, MD.
Năm 1508, Raphael được Giáo hoàng Julius II mời tới Rome, tại đây ông đã dành 12 năm cuối của cuộc đời ngắn ngủi trong sự thăng hoa của nghề nghiệp. Những kiệt tác ông sáng tạo nên tại Rome gồm trong đó có bức tranh được sử dụng cho con tem này.
Nghệ thuật của con tem này chính là chi tiết của bức tranh, đó là bức ảnh nguyên gốc được cúp cho vừa định dạng của con tem.
•Bưu điện Hồng Kông đang đánh dấu sự ra đời của ngôi sao võ thuật huyền thoại kiêm diễn viên Hollywood với hàng loạt sản phẩm lưu niệm tuyet voi
•Những con tem tôn vinh triết lý và phong cách chiến đấu đặc trưng của anh ấy,
•Bưu điện Hongkong phát hành bộ tem đặc biệt và các tài liệu liên quan vào ngày 27/11 để kỷ niệm 80 năm ngày sinh của ngôi sao võ thuật huyền thoại Lý Tiểu Long.
•Các sản phẩm với chủ đề “Di sản của Lý Tiểu Long trong thế giới võ thuật”, nhằm tôn vinh triết lý và bộ phim của siêu sao mọi thời đại.
•Là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất trong lịch sử hiện đại, Lee vẫn truyền cảm hứng cho mọi người trên thế giới hơn 47 năm sau khi ông qua đời.
•75 điều bạn chưa biết về Lý Tiểu Long
•Những con tem và tờ tem đặc biệt đề cập đến bốn bộ phim ăn khách của Lee :
1 - The Big Boss - Đường Sơn đại huynh
2 - Fist of Fury - Tinh Võ Môn
3 - The Way of the Dragon
4 - Mãnh Long quá giang và Game of Death Trò Chơi Tử Thần
Cũng như triết lý và phong cách chiến đấu đặc trưng của ông, Jeet Kune Do. Tờ tem 10 đô la Hồng Kông và 20 đô la Hồng Kông cũng miêu tả cách Lee sống cuộc đời và con người của anh ấy.
•Gói quà lưu niệm, bao gồm một bộ sáu tem, có thiết kế độc đáo. Hộp bên ngoài trông giống như một bảng kẹp - một thiết bị được các nhà làm phim sử dụng bao gồm một bảng có hai phần được đập vào nhau khi bắt đầu quay phim.
•Gói này bao gồm một album, với một trang lật ra đặc biệt trình bày nhiều bức ảnh về cuộc sống của Lee và lịch trình hàng ngày của anh ấy, khiến nó trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với những người hâm mộ và theo dõi bộ phim của Lý Tiểu Long
Mãnh Long quá giang (The Way of The Dragon)
Công chiếu 30-12-1972. Bộ phim do Lý Tiểu Long viết kịch bản, đạo diễn kiêm diễn viên là bộ phim duy nhất trong 4 tác phẩm của Lý Tiểu Long có những cảnh hài hước.
Tinh Võ Môn (Fist of Fury, The Chinese Connection)
Công chiếu 22-3-1972. Bộ phim được dàn dựng hoàn toàn trong trường quay, và 27 năm sau nó trở thành một trong 10 kiệt tác của Hồng Kông. Sau này năm 1994 nó được làm lại thành bộ phim Fist of Legend do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai.
Đường Sơn đại huynh (The Big Boss)
Công chiếu 3-10-1971. Bộ phim ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong ngành phim võ thuật, thu về hơn $3.5 triệu trong khi Lý Tiểu Long chỉ nhận được 15.000 USD.
Trò Chơi Tử Thần (Game of Death)
Bộ phim có sự tham gia của một số diễn viên như Danny Inosanto và Kareem Abdul-Jabbar (trong vai Hakim), trong phim Lý Tiểu Long có biểu diễn khả năng sử dụng côn nhị khúc, ngoài ra, bộ phim còn sử dụng cảnh đám tang thật của Lý Tiểu Long. Phim đóng dang dở thì Lý Tiểu Long chết nên nhà sản xuất đã sửa kịch bản lại vì thế Lý Tiểu Long chỉ xuất hiện ở cảnh đánh nhau trên lầu. Bộ phim này dùng diễn chính đóng thế cả trong phim Tháp Tử Vong.
Công chiếu 3-10-1971. Bộ phim ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong ngành phim võ thuật, thu về hơn $3.5 triệu trong khi Lý Tiểu Long chỉ nhận được 15.000 USD.
Công chiếu 22-3-1972. Bộ phim được dàn dựng hoàn toàn trong trường quay, và 27 năm sau nó trở thành một trong 10 kiệt tác của Hồng Kông. Sau này năm 1994 nó được làm lại thành bộ phim Fist of Legend do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai.
Công chiếu 30-12-1972. Bộ phim do Lý Tiểu Long viết kịch bản, đạo diễn kiêm diễn viên là bộ phim duy nhất trong 4 tác phẩm của Lý Tiểu Long có những cảnh hài hước.
Trò Chơi Tử Thần (Game of Death)
Bộ phim có sự tham gia của một số diễn viên như Danny Inosanto và Kareem Abdul-Jabbar (trong vai Hakim), trong phim Lý Tiểu Long có biểu diễn khả năng sử dụng côn nhị khúc, ngoài ra, bộ phim còn sử dụng cảnh đám tang thật của Lý Tiểu Long. Phim đóng dang dở thì Lý Tiểu Long chết nên nhà sản xuất đã sửa kịch bản lại vì thế Lý Tiểu Long chỉ xuất hiện ở cảnh đánh nhau trên lầu. Bộ phim này dùng diễn chính đóng thế cả trong phim Tháp Tử Vong.
Tháp Tử Vong (Tower of Death)
Công chiếu 21-3-1981. Còn được biết đến với cái tên khác là Tử vong du hí 2 hoặc Trò chơi tử vong 2 (Game of Death 2), đây là phần tiếp theo của bộ phim Trò Chơi Tử Vong và được sản xuất sau khi Lý Tiểu Long qua đời. Billy Những cảnh có Lý Tiểu Long đều được lấy từ những cảnh trong phim mà Lý Tiểu Long đóng như "Long Tranh Hổ đấu". Các cảnh chính trong phim có sử dụng diễn viên đóng thế Lý Tiểu Long. Tuy bộ phim mang danh của Lý Tiểu Long nhưng Lý Tiểu Long không đóng bộ phim này.
Ở bảo tàng nghệ thuật Lourve có một bức điêu khắc của Jean Goujon khiến những người lần đầu đi qua đều phải đỏ mặt xấu hổ khi nhìn vào. Đó là bức tượng một cô gái trẻ đang vạch bầu ngực cho gã đàn ông già nua bú. Không chỉ ở Lourve mà còn nhiều bảo tàng khác trên thế giới có những tấm điêu khắc, tranh vẽ về hai nhân vật này.
Bức điêu khắc và nhiều tác phẩm tranh ấy mang một cái tên chung: Cimon and Pero, và nó mang một câu chuyện đậm tính nhân văn khiến người ta phải khóc, chứ không phải che mắt ngoảnh đi. Pero là con gái của Cimon. Hành động tưởng như ghê tởm ấy chính là tình cảm của cô con gái dành cho người cha đang chết dần chết mòn của mình.
Nếu không hiểu câu chuyện phía sau, hẳn nhiều người sẽ lên tiếng chế nhạo, cuời chê phía bảo tàng. Thật, làm sao có thể đặt một bức tượng, bức tranh vẽ cảnh tượng nhục dục ghê tởm ấy ngay trong khuôn viên bảo tàng nghệ thuật, vốn được biết dành cho sự tinh tế cao sang.
Tới ngày hôm nay, bức "Cimon and Pero" lại một lần nữa khuấy động mạng xã hội, từ Facebook đến Tumblr khắp nơi chia sẻ lại bức tranh của danh hoạ Rubens cùng câu chuyện cảm động về tình cha con ấy.
Câu chuyện mà tác giả kể đúng ở phần chi tiết cốt lõi: Pero đang sử dụng bầu ngực của mình để cứu sống người cha đang phải chịu án tử trong tù của mình.
Tuy nhiên, thực tế, nguyên tác lại khác hơn một chút.
Bức Tranh "Cimon and Pero" của danh hoạ Rubens vẽ năm 1640.
Nguyên gốc câu chuyện có tên Roman Charity, được ghi lại trong cuốn IV bộ Nine Books of Memorable Acts and Sayings of the Ancient Romans ( 9 cuốn sách về hành động và câu nói đáng nhớ của người La Mã cổ đại) của nhà lịch sử học Valerius Maximus viết vào những năm 30 Kỷ Công Nguyên. Hầu hết những câu chuyện trong sách đều dựa trên các khía cạnh cuộc sống đời thường của người Hi Lạp cổ. Roman Charity là chuyện về lòng hiếu thảo.
Bởi vậy, chi tiết nói Cimon là chiến binh anh hùng của Puerto Rico là không chính xác.
Ở truyện gốc, không có Cimon và Pero, chỉ có một người đàn bà bị Pháp quan kết án tử phải ngồi tù. Nhưng vì quản giáo thương tình đã không bóp cổ chết ngay, chỉ để mụ phải dần dần chết đói sau chấn song, đồng thời cho phép con gái vào thăm mụ, chỉ cấm không được tiếp tế đồ ăn.
Nhiều ngày trôi qua, quản giáo ngạc nhiên vì mụ vẫn còn sống, chỉ hơi mệt mỏi tiều tuỵ mà thôi. Thế là vị quản giáo bí mật theo dõi những lần thăm mẹ của cô con gái kia có gì khuất tất hay không. Rồi ông phát hiện ra trong cuộc thăm viếng, cô con gái vạch bầu ngực của mình ra để mẹ bú sữa để bà không chết đói trong tù.
Chuyện đến tai Pháp quan không lâu sau đó, nhưng vì cảm động với sự hiếu thảo của cô con gái dành cho mẹ, vị Pháp quan đã trình báo lên Bồi thẩm đoàn và quyết định thả tự do cho người đàn bà về với con gái.
Vốn đã là truyện thì thường có dị bản, mà "Cimon and Pero" chính là dị bản của câu chuyện người mẹ bú sữa con gái trong tù bên trên. Cimon có vai trò thay thế bà lão, còn Pero, vẫn mang nhiệm vụ cô con gái hiếu thuận tìm mọi cách nuôi bố mẹ trong tù.
Cimon bị kết tội tử hình phải ngồi tù và đang bị bỏ đói trước khi hành hình. Pero không muốn cha phải chịu khổ đau đã lén lút để cha bú sữa trong những lần thăm cha. Cuối cùng vụ việc bị phát hiện, nhưng vì sự đẹp đẽ phía sau hành động ấy, Cimon đã được trả tự do cùng con gái hiếu thảo của mình.
Câu chuyện về lòng hiếu thuận La Mã đã trở thành cảm hứng sáng tác cho rất nhiều nghệ sỹ ở thế kỷ 17, 18. Bức điêu khắc của Jean Goujon là một trong số đó. Ngoài ra, còn có bức tranh sơn dầu của danh hoạ Peter Paul Rubens.
Tạm gác câu chuyện nguyên tác, dị bản sang một bên, chúng ta bàn về "hiệu ứng bức tranh" trước đã. Bạn có thấy, con người đã để óc phán xét hoạt động quá dễ dàng? Thay vì tìm hiểu ngọn ngành, chúng ta rất nhanh có thể chê bôi, bình luận biêu riếu một sự việc, con người nào đó chỉ bằng những nhận định ban đầu.
Sơ lược tiểu sử Peter Paul Rubens
Peter Paul Rubens (28 tháng 6 năm 1577 - 30 tháng 5 năm 1640) là một họa sĩ lỗi lạc người Vlaanderen vào thế kỉ 17, ông là nhân vật khai xướng cho phong cách baroque hoa mỹ, một phong cách nhấn mạnh đến sự di chuyển, màu sắc và nhục dục. Rubens được biết đến với các tác phẩm với chủ đề về lịch sử, phong cảnh, chân dung, altarpieces. Ngoài ra ông còn là chủ một cửa hàng studio tại Antwerp, chuyên cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng với tầng lớp quý tộc và các nhà sưu tầm nghệ thuật trên khắp châu Âu. Rubens còn là một học giả về chủ nghĩa nhân đạo, một nhà sưu tầm nghệ thuật và một nhà ngoại giao từng được vua Tây Ban Nha Felipe IV và vua Anh Charles I phong tước Hiệp sĩ.